Chất Phụ Gia Trong Sản Xuất Thức Ăn Cá
Chất phụ gia trong sản xuất thức ăn cá
12/12/2024 10:19:32 AM
Chất phụ gia được thêm vào thức ăn cá gồm những chất nào và có tác dụng gì?
Thức ăn nuôi trồng thủy sản là một tập hợp các nguyên liệu đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng phục vụ các chức năng sinh lí như là hệ thống miễn dịch, sự sinh trưởng và sinh sản. Để đảm bảo chất dinh dưỡng lấy vào được tiêu hóa, hấp thụ và chuyển đến tế bào; các chất phụ gia đã được thêm vào thức ăn. Chất phụ gia mang lại những lợi ích cụ thể như: thúc đẩy sự tăng trưởng và tăng cường sức khỏe, cải thiện hệ miễn dịch cùng các lợi ích sinh lí khác mà thức ăn truyền thống không đảm bảo được.
Những chất phụ gia thường được thêm vào thức ăn của cá bao gồm: probiotic (vi sinh vật sống hữu ích trong đường ruột vật chủ), prebiotic (thức ăn của probiotic), chất phytogenics (chất thay thế kháng sinh), chất kích thích miễn dịch, enzym, hormone (nội tiết tố), các acid hữu cơ,... thường được thêm để quản lý năng suất cá và cải thiện thu nhập cho người nuôi.
Là sản phẩm có nguồn gốc thực vật, được thêm vào thức ăn nhằm tăng tính hấp dẫn của thức ăn và cải thiện năng suất cá. Những hoạt chất thực vật này có nhiều tác dụng trên các sinh vật bao gồm cải thiện năng suất và tiêu hóa của thức ăn, giảm sự bài tiết nitơ, tăng cường chức năng ruột. Đây là nhóm phụ gia không đồng nhất có nguồn gốc từ lá, rễ, củ hoặc quả của cây thảo dược, gia vị, những loài cây khác,... chúng có sẵn ở dạng rắn, khô hay d& #7841;ng dầu.
Phytogenic có nguốn gốc từ thực vật.
Một nghiên cứu khác sử dụng bột lá cây ổi và dịch ethanol chiết xuất từ lá ổi có thể kiểm soát sự nhiễm khuẩn Aeromonas hydrophila. Cá bị nhiễm khuẩn cũng giảm tỉ lệ chết khi sử dụng hỗn hợp trên hơn là sử dụng kháng sinh oxytetracyline. Theo Zilberg, cá rô phi được ăn lá cây hương thảo khô sẽ giảm tỉ lệ chết khi nhiễm khuẩn Streptococcus iniae. Họ chỉ ra rằng, khi sử dụng 8% hương thảo thì tỉ lệ chết của cá là 44% gần tương đương nghiệm thức sử dụng tetracyline (43%) và thấp hơn nghiệm thức đối chứng - không sử dụng kháng sinh điều trị (65%).
Ngoài ra, nghiên cứu của Goda cho thấy sử dụng 200mg cây sâm trên một kilogam thức ăn, sử trong 17 tuần sẽ làm tăng khả năng tăng trưởng, hiệu quả sử dụng thức ăn, các chỉ số huyết học và tỉ lệ sử dụng protein ở các giống cũng cao hơn.
Là tập hợp các vi sinh vật sống được cung cấp với số lượng vừa đủ để nâng cao sức khỏe vật nuôi. Chúng không mang mầm bệnh, độc tố cũng như không có tác dụng phụ khi sử dụng. Đặc biệt, chúng hiệu quả trong việc cải thiện và cân bằng đường ruột. Vi sinh vật được sử dụng bao gồm vi khuẩn Gram âm, Gram dương, nấm và tảo đơn bào.
Các chủng probiotics.
Nghiên cứu của Zhou cho thấy rằng khi thêm Bacillus coagulans và Rhodopseudomonas palustris với nồng độ là 1x 9107 CFU/ml (số đơn vị khuẩn trên 1 ml) vào thức ăn hai ngày một lần sẽ cải thiện trọng lượng mỗi ngày, tỉ lệ sống cũng cao hơn nghiệm thức không bổ sung men vi sinh trên cá.
Tương tự theo phân tích của Wang, khi thêm 1x 10 7 CFU/ml khuẩn E. faecium vào nước bốn ngày một lần thì trọng lượng thu hoạch và tốc độ tăng trưởng sẽ cao hơn nghiệm thức không bổ sung. Thêm vào đó, ở nghiệm thức được bổ sung vi sinh, hoạt động của enzyme và sự hô hấp của các tế bào thực bào cũng cao hơn.
Theo Pigott, khi kết hợp các khuẩn Streptococcus faecium and Lactobacillus acidophilus và nấm ( Saccharomyces cerevisae) sẽ cải thiện khả năng tăng trưởng của cá rô phi. Ở nghiên cứu của Aly chỉ ra Bacillus subtilis and L. acidophilus, là những loại khuẩn tiềm năng kích thích đáp ứng miễn dịch ở cá rô phi. Cả B. subtilis và L. acidophilus đều ức chế sự tăng trưởng của A. hydrophila. Ngoài ra, B. subtilis ức chế sự phát triển của P. fluorescens trong khi L. acidophilus ức chế sự sinh trưởng của S. iniae.
Prebiotic là một thành phần thức ăn không thể tiêu hóa, bằng việc chọn lọc kích thích sự tăng trưởng và hoạt động của một hoặc một số loại vi khuẩn đường ruột sẽ giúp cải thiện sức khỏe vật nuôi. Prebiotics là thức ăn của các loài vi sinh, những loài mang nhiều lợi ích cho đường ruột của vật chủ. Để một thành phần thức ăn được xem là prebiotic thì đầu tiên chúng cần không bị phân hủy hay hấp thụ trong đường tiêu hóa; thứ hai là phải được lên men bởi c 225;c vi khuẩn đường ruột; chúng là chất chọn lọc một hoặc một số lượng vi khuẩn có lợi cho đường ruột; cuối cùng là có thể biến đổi hệ vi sinh vật đường ruột theo hướng có lợi cho vật nuôi.
Prebiotics mang về những biến đổi riêng biệt của vi sinh đường ruột, cụ thể là làm tăng số lượng tế bào vi khuẩn bifidobacteria và lactobacilli hoặc làm giảm những vi khuẩn có hại tiềm tàng mà ảnh hưởng đáng kể đến sức khỏe vật nuôi. Prebiotics được sử dụng phổ biến nhất là inulin, fructo-oligosaccharides, fructo-oligosaccharides chuỗi ngắn, oligofructose, mannan-oligosaccharides, trans-galactooligosaccharides.
Thực phẩm giàu prebiotics.
Tiền probiotics được thêm vào thức ăn sẽ thúc đẩy khả năng bẩm sinh chống lại mầm bệnh của cá như là A. hydrophila, P. fluorescens và F.columnare. Hassaan cũng thực hiện thí nghiệm về vi khuẩn B. licheniformis và chiết xuất từ nấm men cũng làm tăng hiệu quả sử dụng dinh dưỡng và khả năng tăng trưởng. Trái ngược với các nghiên cứu trên, Shelby tiến hành kết hợp giữa nấm men và thành phần phụ của nấm men như β-glucan hoặc oligo-saccharide thì không cho sự thay đổi về tăng trưởng, khả năng chố ;ng bệnh hay sống sót khi nhiễm khuẩn S. iniae hoặc Edwardsiella tarda.
Acid hữu cơ là carboxylic hữu cơ có dạng cấu tạo chung là R-COOH, ở đây tính acid thể hiện nhờ nhóm carboxyl (-COOH). Chúng là các acid yếu vì chúng phân ly không hoàn toàn ra một ion hydrogen (H+) và một ion carboxylate (-COO-), ví dụ acid acetic (giấm ăn): CH2COOH. Khẩu phần ăn có thêm acid hữu cơ được sử dụng rộng rãi trong dinh dưỡng động vật và chúng là một chất phụ gia triển vọng trong việc cải thiện sức khỏe đường ruột của vật nuôi.
Có hai hoạt động khác nhau của acid hữu cơ ảnh hưởng đến hệ tiêu hóa của cá: một là làm giảm pH ở dạ dày và đoạn nhỏ ruột góp phần cải thiện hoạt động của enzymes tiêu hóa và hai là acid hữu cơ có thể xâm nhập vào thành tế bào của bất cứ loài vi khuẩn nào, chúng sẽ cắt đứt hoạt động sinh lí của vi khuẩn và ngăn sự tăng trưởng của mầm bệnh. Acid hữu cơ cũng được thêm vào thức ăn để làm giảm các mối nguy tiềm tàng về vi khuẩn, nấm (Aspergillus, P enicillium, and Fusarium). Hầu hết các acid hữu cơ được sử dụng phổ biến dưới dạng đơn như propionic, sorbic, benzoic, butyric acids, malic acid, lactic acids, and acetic acids; hoặc dạng kết hợp muối của acids hữu cơ như calcium propionate, potassium sorbate, sodium benzoate.
Theo nghiên cứu của Lim, khi vật nuôi lấy thức ăn nhiều hoặc thức ăn giàu protein thì hàm lượng HCL trong dạ dày sẽ giảm. Điều này sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của pepsin và enzyme tuyến tụy. Abu-Elala cho biết khi bổ sung 0.2% và 0.3% acid hữu cơ, potassium diformate (KDF) đã cải thiện đáng kể lượng thức ăn lấy vào, tăng trọng lượng, tỉ lệ sống, hệ số chuyển đổi thức ăn và tỉ lệ sử dụng protein. Sự giảm pH đường ruột và dạ dày khi bổ sung KDF là bước đầu tiên giúp cải thiệ ;n tăng trưởng và protein đường ruột. pH thấp của dạ dày sẽ làm cho hoạt động pepsin hiệu quả hơn khi chuyển hóa protein. Và lí do thứ hai góp phần cải thiện là việc KDF bổ sung sẽ làm giảm tổng lượng vi khuẩn trong phân. Bởi vì acid có thể thấm qua màng tế bào vi khuẩn gam âm và acid hóa quá trình trao đổi chất của chúng.
Koh nghiên cứu về ảnh hưởng của oxytetracycline hoặc acids hữu cơ (bao gồm năm loại acids hữu cơ: formic acid, lactic acid, malic acid, tartaric acid và citric acid) lên sự tăng trưởng, hiệu quả sử dụng dinh dưỡng và lượng vi khuẩn đường ruột/phân trên cá rô phi. Bổ sung 0.5% oxytetracycline và 0.5% hỗn hợp acid hữu cơ có tác dụng chống lại S.agalactiae. Ngoài ra, acid hữu cơ có thể thay thế oxytetracyline. Trong một số trường hợp, khi trộn 1g/kg acid fomic và 2g/kg propionic acid là một phương pháp ưu việt để chống lại khuẩn A. sobria. Theo Khaled cho bi ết sodium diformate là chất phụ gia thương phẩm phù hợp cá rô phi giống. Bổ sung 3g/kg vào thức ăn sẽ cải thiện hệ số chuyển đổi thức ăn FCA và PER cũng như khả năng tiêu hóa protein và lipid.
Hiện nay, một số enzyme ngoại sinh như phytase, carbohydrase, protease và lipase được dùng càng ngày phổ biến trong thức ăn thủy sản để chống lại các yếu tố kháng dinh dưỡng giúp cải thiện đường ruột và tăng trưởng tốt. Ví dụ phytase là enzyme riêng biệt để phân giải phytate, và đã được sử dụng qua hơn hai thập kỉ. Theo Bai, lên tới 80% phosphorus trong các loại hạt ở dạng phytate và khả năng tiêu hóa tự nhiên của cá với phytate lại rất thấp. Do đó sử dụng phytase sẽ làm tăng khả năng tiêu h 243;a phosphorus. Tuy nhiên, enzymes thường bị biến tính bởi nhiệt trong quá trình chế biến thức ăn, nhiệt độ tối ưu cho enzyme hoạt động là 37oC mà khi sử dụng trên cá là động vật sống trong nước lạnh, thân nhiệt thấp. Điều này sẽ gây ảnh hưởng đến việc ứng dụng enzymes trong thức ăn thủy sản.
Hoạt động của enzymes.
Các loại hormones khác nhau đã được sử dụng cho các mục đích riêng biệt trong nuôi trồng thủy sản. Ví dụ hormone tăng trưởng và hormone tuyến giáp có vai trò đặc biệt trong việc tích lũy các tế bào soma của cá rô phi.
Methyl testosterone dùng trong chuyển cá rô phi toàn đực.
Các dược liệu thường dùng trong đáp ứng miễn dịch
Dinh dưỡng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc nuôi cá. Để có thể thúc đẩy các tiềm năng về gen sinh trưởng của cá ngoài ảnh hưởng của cá yếu tố như: hành vi cá, mật độ nuôi, chất lượng thức ăn, khẩu phần ăn hằng ngày và tần số cho ăn,... thì sử dụng thêm phụ gia thức ăn giúp cải thiện hệ số chuyển đổi thức ăn, cải thiện đường tiêu hóa, kích thích hệ thống miễn dịch, hấp thu độc tố và làm giảm khả năng sinh khả dụng vào m& #225;u.
https://tepbac.com/tin-tuc/full/chat-phu-gia-trong-san-xuat-thuc-an-ca-29562.html?fbclid=IwAR0O4Yh1EgGiCjej_RKB4cp-6XaSeKCShCeIcy4OsHEbzucrL_J2mVUdBSE